Vô sinh ở phụ nữ chiếm 50% nguyên nhân vô sinh

P.V, icon
10:40 ngày 28/11/2019

VTV.vn - Việt Nam hiện có khoảng 7,7% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản bị hiếm muộn. Trong đó, vô sinh nữ là một vấn đề phổ biến trong điều trị vô sinh hiếm muộn.

Theo các bác sĩ Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Bưu điện, vô sinh nữ chiếm khoảng 50% trong tổng số các nguyên nhân vô sinh. Trong đó, bao gồm rất nhiều các yếu tố nguy cơ khác nhau như: độ tuổi, rối loạn phóng noãn, bệnh lý vòi trứng, bệnh lý tử cung... Thậm chí, có bệnh nhân kết hợp nhiều bệnh cảnh như đa u xơ tử cung và giảm dự trữ buồng trứng, làm cho quá trình điều trị cần phải tính toán và điều trị hợp lý để tăng tối đa cơ hội có thai của bệnh nhân.

Ngoài ra, chiếm tỷ lệ không nhỏ là các trường hợp vô sinh không rõ nguyên nhân. Các bệnh nhân này cần được theo dõi sát và sử dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản để tăng cơ hội có thai.

Tuổi của người phụ nữ là yếu tố quan trọng dự đoán khả năng có thai tự nhiên do liên quan đến số lượng và chất lượng trứng. Các nghiên cứu cho thấy: Phụ nữ trên 35 tuổi tỷ lệ có thai giảm hẳn do giảm dự trữ buồng trứng, trên 40 tuổi rất ít có khả năng có thai, trong khi đó tỷ lệ mắc dị tật và nguy cơ sảy thai, lưu thai tăng cao.

Chiếm tỷ lệ lớn trong các nguyên nhân vô sinh ở nữ là các rối loạn phóng noãn. Theo Tổ chức Y tế thế giới, có 3 nhóm rối loạn phóng noãn:

Nhóm I: Những rối loạn phóng noãn gây ra bởi sự suy giảm hạ đồi tuyến yên, bao gồm triệu chứng mất kinh (nguyên phát hoặc thứ phát), giảm các chỉ số hormone (FSH, LH, Estradiol). Khoảng 10% các phụ nữ rối loạn phóng noãn thuộc nhóm I.

Nhóm II: Rối loạn phóng noãn do giảm khả năng phóng noãn từ trục hạ đồi - tuyến yên - buồng trứng. Bệnh cảnh này gồm hội chứng buồng trứng đa nang, hội chứng tăng prolactin máu . Khoảng 85% số phụ nữ rối loạn phóng noãn thuộc nhóm II.

Nhóm III: Suy buồng trứng. Chỉ có khoảng 5% bệnh nhân thuộc nhóm này. Trong nhóm bệnh nhân suy buồng trứng sớm có khoảng 5 đến 15 % có khả năng hồi phục buồng trứng. Tuy nhiên, mức độ hồi phục tùy thuộc vào mỗi bệnh nhân và nguyên nhân mắc phải. Các bệnh nhân thuộc nhóm này muốn có con thường chỉ định xin noãn để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm.

Một nguyên nhân phổ biến khác trong vô sinh nữ là các vấn đề liên quan đến vòi trứng. Viêm nhiễm sinh dục mạn tính, tái diễn nhiều đợt, không điều trị triệt để như nhiễm chlamydia, lao sinh dục, lậu… dẫn đến viêm tắc vòi trứng, ứ mủ vòi trứng làm vòi trứng mất chức năng bắt noãn, tăng nguy cơ chửa ngoài tử cung. Bệnh cảnh này được chẩn đoán dựa trên siêu âm đầu dò âm đạo, chụp tử cung vòi trứng và tiêu chuẩn vàng là phẫu thuật nội soi thăm dò chức năng vòi trứng. Tùy thuộc mức độ tổn thương để quyết định can thiệp phẫu thuật trước hay tiến hành hỗ trợ sinh sản trước.

Ngoài yếu tố vòi trứng thì tử cung là cơ quan quan trọng quyết định quá trình làm tổ và phát triển của thai. Các nguyên nhân mắc phải bao gồm: viêm niêm mạc tử cung, dính buồng tử cung (Hội chứng Asherman), nguyên nhân bẩm sinh: tử cung đôi, tử cung hai sừng, tử cung có vách ngăn hoàn toàn hay không hoàn toàn… Các bất thường này làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng có thai và giữ thai.

Chiếm tỷ lệ rất nhỏ là các bất thường liên quan đến đột biến gene, nhiễm sắc thể dẫn đến bất thường phát triển cơ quan sinh dục và sinh sản như Hội chứng Turner, Hội chứng siêu nữ XXX… Các bất thường cấp độ nhiễm sắc thể (đứt đoạn, chuyển đoạn, lặp đoạn..) là nguyên nhân gây dị tật, sảy thai và lưu thai liên tiếp. Đối với các trường hợp này, bệnh nhân cần được tư vấn di truyền trước khi mang thai và cần được chẩn đoán di truyền tiền làm tổ để có thể sinh ra những em bé tiếp theo khỏe mạnh

Bên cạnh các nguyên nhân rõ ràng, có khoảng 15% các cặp vợ chồng chưa tìm thấy nguyên nhân cụ thể dẫn đến tình trạng vô sinh hiếm muộn. Các nhà khoa học khuyên nên thay đổi lối sống: kiêng rượu, bia, thuốc lá, hạn chế tiếp xúc hóa chất độc hại…

* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online!

Cùng chuyên mục