Ngày 11/11, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã tổ chức Hội thảo cung cấp thông tin định hướng mới của chương trình dân số Việt Nam.
Ông Nguyễn Doãn Tú, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình
25 năm qua, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả to lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước: Tốc độ tăng trưởng dân số được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế sớm hơn 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết đề ra và tiếp tục duy trì đến nay, hạn chế tăng thêm hàng chục triệu người.
Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, dân số trong độ tuổi lao động tăng cao. Từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng; Chất lượng dân số được cải thiện nhiều mặt, tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,4 tuổi vào năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
Quy mô dân số và mức sinh (theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình)
Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số được phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa - công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình vẫn còn nhiều hạn chế, mức sinh giữa các vùng miền còn chênh lệch đáng kể.
Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng, chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế cả thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số. Người ít có điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng con còn đẻ nhiều, ảnh hưởng đến chất lượng dân số. Chỉ số phát triển con người (HDI) còn thấp.
Theo đó, Việt Nam đạt Dân số vàng từ năm 2007 và kéo dài khoảng 30 - 40 năm. Tuy nhiên, việc già hóa dân số đã diễn ra từ năm 2011 và dự kiến nước ta có Dân số già sau năm 2035.
Dự báo dân số theo nhóm tuổi, 1990-2050 (theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình)
Bên cạnh đó, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh theo hướng thừa nam thiếu nữ đã ở mức cao, ngày càng lan rộng, cả thành thị và nông thôn. Kể từ năm 2006 đến nay, tỷ lệ giới tính khi sinh luôn cao hơn 109/100 so với mức cân bằng tự nhiên là 103-107/100.
Tỷ số giới tính khi sinh (theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình)
Tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam chậm được cải thiện, tuổi thọ bình quân tăng trưởng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp hơn so với nhiều nước.
Tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống còn phổ biến ở một số đồng bào dân tộc ít người. Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập. Tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế.
Công tác truyền thông, giáo dục về dân số ở một số khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao, vai trò nhà trường còn hạn chế. Nội dung truyền thông, cung cấp dịch vụ chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào KHHGĐ; tổ chức bộ máy thiếu ổn định, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số tại các cấp cơ sở còn thấp. Nguồn lực đầu tư cho công tác DS-KHHGĐ còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu…
Giải quyết toàn diện các vấn đề dân số về quy mô, cơ cấu
Để giải quyết toàn diện các vấn đề phát sinh trong công tác dân số trong thời kỳ mới, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trong Hội nghị lần thứ 6 đã đề ra nghị quyết về công tác Dân số trong thời kỳ mới với mục tiêu chung: Giải quyết toàn diện các vấn đề dân số về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Để đưa Nghị quyết XXI vào thực tiễn, Chính phủ cũng ban hành nghị quyết 137, chương trình hành động của Chính phủ để thực hiện Nghị quyết XXI, trong đó chính phủ đã giao cho 12 Bộ, Ban, ngành xây dựng 42 chương trình, luật, đề án chương trình hành động nhằm cụ thể hóa Nghị quyết XXI về dân số trong thời kỳ mới.
- 8 mục tiêu cụ thể trong Chiến lược Dân số:
+ Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, quy mô DS 104 triệu người
+ Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc có dưới 10.000 người
+ Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống
+ Tỷ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%
+ Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi
+ Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm
+ Tỷ lệ dân số đô thị đạt trên 45%, 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc
- 22 chỉ tiêu chuyên môn: mức sinh thay thế, tỷ số giới tính khi sinh, lợi thế cơ cấu DS vàng, già hóa DS, phân bổ DS, chất lượng DS…
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết XXI, một số văn bản luật, chiến lược, chương trình, đề án đã được ban nhành như: luật lao động sửa đổi, chiến lược dân số đến năm 2030, chiến lược truyền thông dân số đến năm 2030; chương trình điều chỉnh mức sinh giữa các vùng, các đối tượng đến năm 2030; chương trình chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tới năm 2030; chương trình nâng cao chất lượng dân số, tầm soát sàng lọc bệnh tật trước sinh và sơ sinh…
Trong thời gian tới, mô hình tổ chức bộ máy làm công tác dân số, cơ chế phối hợp liên ngành, mô hình cộng tác viên làm công tác dân số, gia đình trẻ em cũng sẽ được hoàn thiện và trình chính phủ ban hành.
Các Bộ, Ban ngành khác như Bộ giáo dục, Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch - Đầu tư... cũng đã và sẽ ban hành các đề án, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 137 của Chính phủ.
Những chương trình đề án được xây dựng theo Nghị quyết 137 chính là những nội dung quan trọng của công tác dân số trong thời kỳ mới, đặc biệt là trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.
* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online và VTVGo!