Hành trình phục thiện của người đàn ông bò quanh núi đá

Văn Quân-Thứ tư, ngày 11/12/2013 14:31 GMT+7

 Nhà báo Đàm Quang ở Đài Truyền hình Hòa Bình bảo với tôi rằng, nếu có thời gian anh sẽ viết hẳn một cuốn tiểu thuyết về Lương Minh Giang, người đàn ông đang sống quạnh quẽ trên đỉnh núi Tháu giữa lòng hồ thủy điện Hòa Bình bởi số phận quá ư giông bão và cách Giang đứng dậy làm lại cuộc đời cũng đầy kỳ tích mà không phải ai cũng có thể làm.

Tôi quyết định làm một chuyến ngược rừng, tìm vào nơi hoang thẳm tìm gặp người đàn ông nhiều thân phận ấy…

‘ Lương Minh Giang

Thơ ấu vui buồn

Giữa đông, gió và cái lạnh từ lòng hồ thủy điện Hòa Bình xói vào mặt như châm kim. Người đàn ông vạn chài nhiệt tình đưa tôi ngược sông Đà ra núi Tháu. Gọi là núi Tháu, nhưng đây thực ra là một ốc đảo nhỏ, nằm lẻ loi giữa hồ sông Đà và để đi ra được chốn này cách chỉ duy nhất là vượt 2km bằng thuyền độc mộc. Giữa thăm thẳm nước và những tảng đá tai mèo lởm chởm dựng ngược lên trời, phải bám tay thật chắc, tôi mới bò lên đến ngôi nhà của Lương Minh Giang. Tuổi Đinh Dậu 1957, người ta bảo tuổi này có tài, làm ra nhiều tiền lắm của những khó giữ. Chiêu một chén rượu trắng, Lương Minh Giang mở đầu câu chuyện mà anh bảo rằng, một thầy cúng ở Sơn La đã từng nói về anh thời anh còn lang thang sông nước cách đây hơn 20 năm. Sinh ra trong một gia đình công chức tại thành phố Hòa Bình, bố anh trước là chánh án tòa an thị xã, mẹ là nhân viên của bệnh viện tỉnh.

So với bạn bè trang lứa thời ấy, Giang bảo nhà anh thuộc thành phần cơ bản, không giàu có nhưng cũng không phải nghĩ nhiều đến cái ăn cái mặc. Và Giang đã không phụ công ơn cha mẹ khi suốt 9 năm liền đều là học sinh giỏi, thậm chí là học sinh giỏi của toàn miền Bắc và một tương lai đầy hứa hẹn đang chờ đợi anh ở phía trước. "Nếu chiến tranh không đi đến hồi quyết liệt như vậy, nếu khí thế của toàn miền Bắc không hừng hực như những ngày đầu năm 1975 thì có lẽ tôi sẽ theo học đại học hoặc làm một công việc gì đó. Nhưng có sống ở những tháng ngày ấy mới hiểu, cái chí của một thằng đàn ông muốn ôm súng lên đường giải phóng đất nước nó thấm vào máu của tất cả lũ con trai. Tôi nhớ không nhầm thì hầu hết lũ con trai của lớp tôi đều lên đướng đánh Mỹ, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công ngày 30.4 năm ấy."

Và rồi từ giã những ngày cuối cấp, Lương Văn Giang lên đường kháng chiến trong hào khí hừng hực của cả dân tộc trong những ngày đầu năm 1975. Giang bảo thời gian anh mặc áo lính không nhiều, chỉ hơn 5 năm thôi nhưng Giang có cơ hội được tham dự vào ba sự kiện lớn của dân tộc trong giai đoạn ấy. Giải phóng Sài Gòn xong, chưa kịp nghỉ ngơi về thăm gia đình, anh và đồng đội đã nhận nhiệm vụ sang chiến trường K khu vực biên giới Tây Nam. Sau 4 tháng giải phóng biên giới Tây Nam, đơn vị lại ngược ra Bắc lên vùng Võ Nhai Thái Nguyên để chuẩn bị cho công cuộc giải phóng biên giới phía Bắc. Anh làm nhiệm vụ trinh sát cho bộ đội công binh. Tất cả những khu vực ở Cao Bằng, Lạng Sơn, những tuyến đướng 61, 62, 63, 64… đều đã in dấu chân của người lính trẻ Lương Minh Giang.

"Năm 1980 tôi ra quân và phía trước là kế hoạch đi học nước ngoài bố tôi đã sắp đặt sẵn, nhưng không hiểu sao, ước muốn được ngao du sơn thủy trong những tháng năm lửa đạn lại ùa về. Ông cụ nhà tôi đã gần như ngất xỉu khi nghe tin tôi từ chối du học và sẽ ngược lên chốn rừng xanh núi đỏ để… đi buôn". Nhấp một chút rượu, Lương Minh Giang lặng lẽ nói với tôi bằng những lời nhẹ như gió thoảng. Giang bảo đó là một dấu mốc, một bước ngoạt đánh dấu cho một giai đoạn đầy hãi hùng mà đôi khi giật mình tỉnh giấc trong đêm anh đều sửng sốt như không tin đó là sự thật. Thậm chí, đó là chuỗi những tháng ngày của quá khứ mà anh muốn quên.

Những ngày sống trong sợ hãi

Sông Đà của những ngày đầu năm 1980 đã được Nguyễn Tuân nói kỹ trong "Bút ký sông Đà" mà cụ thể là trong bài ký "Người lái đò sông Đà" nổi tiếng. Cụ Nguyễn cho rằng đó là con sông nguy hiểm và hung dữ nhất Việt Nam thời điểm đó. Hành trình 170 thác 130 ghềnh dọc sông Đà đã in dấu chân Lương Minh Giang không biết bao nhiêu lần. Một mình một bè, chơ vơ giữa trời nước, đánh đu với chính mạng sống của mình, Lương Minh Giang đã trở thành một tay anh chị vùng sông nước với những bè gỗ từ vùng thượng du Mường Tè (Lai Châu), Phù Yên (Sơn La) về tới bến Trung Hà (Hà Tây cũ). Có những con dốc, con thác, nếu chỉ chậm một nhịp chèo thôi là bản thân đã phải xuống thăm Hà Bá, có những chuyến hàng nếu không "rắn" mặt, không liều lĩnh thì đã bị các đối tượng bản địa "xử đẹp".

Dân đi bè dọc sông Đã thời ấy vẫn thường nói rằng: "Qua hòn Mật (mạng sống) mới thật là của ta, qua Ba Ta mới làm nhà mà ở, qua mỏ quạ Xi Nhom mới làm hòm mà đựng bạc". Sự nguy hiểm trong công việc cũng tỉ lệ với lợi nhuận. Giang bảo rằng, cứ qua được một thác hoặc ghềnh nào đó, giá đã cao gấp lên tới mười lần. Và anh lúc đó tiền nhiều vô kể. Nhiều đến mức mà anh phải cho vào bao tải rồi vứt chổng chơ dưới ván thuyền. 23 tuổi và vô số tiền bạc. Chán nản và mất phương hướng. Giang bập vào thuốc phiện và cờ bạc như một tất yếu. Giang kể đã có những lần sau khi thanh toán hàng hóa xong, anh vác từng túi tiền nặng chịch về Cầu Đất Hà Nội cờ bạc và hút xách đến hàng tháng trời mới về lại Hòa Bình. Thậm chí có những lần, không cần mang tiền mặt đi, cứ thấy anh là các chủ xới ở Hà Nội, Sơn La, Lai Châu có thể "ứng" tiền cho anh hưởng thụ cả tháng trời rồi sẽ thanh toán sau.

Ngồi trò chuyện, Giang tự lí giải vì sao thời điểm đó anh lại làm ra nhiều tiền của đến như vậy là bởi anh liều lĩnh, làm cái nghề này người nào liều lĩnh đã là một nửa thành công, thứ hai là "cái đầu" của một người đã đi đây đi đó, biết lắng nghe và suy xét. Lắng nghe suy xét với tất cả mọi mối quan hệ, từ bạn hàng đến kiểm lâm lẫn người dân tộc bản xứ. "Cuộc đời tôi sẽ buồn biết bao nếu không gặp cô ấy"- Đang nói chuyện, anh bỗng chỉ tay về người phụ nữ đang lúi húi dưới bếp. Chị tên Huệ, một đóa hoa rừng thơm ngát mà trong một lần ngao du xuống bên Trung Hà anh đã gặp gỡ và nên duyên nợ. Cả nhà chị phản đối và trước tình yêu của anh, trong một đêm mưa gió, chị đã bí mật trốn bố mẹ theo anh xuống thuyền. Chấp nhận một cuộc đời nổi trôi sông nước dọc sông Đà cùng anh. Ngồi nói chuyện Giang bảo duyên nợ là rất đúng. Duyên thì rõ rồi, còn nợ thì chính anh là "con nợ" của chị, anh đã nợ chị một món nợ ân tình mà những tháng ngày hoàn lương của mười năm sau anh đã coi như những hành động sám hối và trả nghĩa lại người phụ nữ mà có lẽ, ông trời đã ban xuống như một cứu cánh cho cuộc đời phiêu bạt của anh.

‘ Niềm vui trong lao động của anh Giang

Người đàn ông bò quanh núi đá

Đến với anh, chấp nhân sống cùng một người chồng nghiện ngập với chị, như một lẽ bình thường, cũng như tình yêu chị dành cho anh vậy. Năm 1990 đứa con trai đầu lòng ra đời, và việc thủy điện sông Đà đã hoạt động hoàn chỉnh, Lương Văn Giang quyết định lên bờ với… hai bàn tay trắng. Từ một kẻ giàu có thì lúc này, khi những chuyến buôn gỗ đã không thực hiện được nữa, cờ bạc và thuốc phiện đã khiến anh thân tàn ma dại trong những tháng ngày sau đó. Thậm chí đã có thời gian, Lương Minh Giang trở thành một tên du thủ du thực, cầm dao cướp của tại một số tụ điểm như Bưu điện thị xã, chợ Hòa Bình… Người cha, trước đứa con bất trị không bảo ban được đã xin nghỉ hưu sớm và từ đó, sức khỏe của ông cũng xuống dần theo những lần "lên cơn nghiện" của Giang. "Tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh ông nằm trên giường bệnh bất lực nhìn đứa con trai ngỗ ngược. Ông không còn đủ nước mắt để khóc, chỉ những dòng đục đục từ khóe mắt chảy ra nhìn tôi…" Quỳ bên cha già suốt đêm hôm ấy, Giang quyết tâm phải làm lại cuộc đời.

Không chỉ ngày ấy mà giờ đây, núi Tháu, ốc đảo nằm chơ vơ giữa lòng hồ thủy điện vẫn là một vùng núi vô cùng hoang vu quạnh quẽ. Chỉ núi đá nối tiếp đá núi. Thời anh lên đây không một bóng người, thực ra trước đó cũng đã có bốn hộ gia đình lên đây tính kế lập nghiệp nhưng rồi lần lượt phải bỏ đi bởi sự hoang sơ và thú dữ. Giang kể, thời ấy có những con rắn hổ chúa nặng đến 5 cân, cắn chết bốn con chó một lúc, mất gần một tháng anh mới thu phục được. Hay có lần, cũng chính tay anh đã hạ gục một con gấu nặng 50 cân.

"Cũng gọi là đã trải mọi thăng trầm thì việc cai nghiện là việc khó nhất trong cuộc đời tôi đã gặp." Thương vợ, anh bảo chị cứ mỗi lần anh lên cơn là chị và con hãy chạy thật xa, cứ mặc anh. Có những lần tưởng không cưỡng lại nổi anh lại tự lấy dao đâm tay chảy máu để nhờ cảm giác đau đớn sẽ "cắt cơn". Không thành công, anh lại nhờ chị buộc hai tay lại để… bò quanh núi đá. Anh bảo anh không nhớ anh đã bò đi bò lại mấy nghìn lần, đến khi núi đá mòn nhẵn, đầu gối chi chít sẹo thì hành trình cai nghiện của anh cũng thành công.

Chỉ tay về phía núi đá cao ngất Giang bảo đó là thành quả của những lần "vật thuốc" anh hành xác bằng cách bê từng hòn đá lên xếp gọn trên đó để tìm đất trồng cây. Đêm đêm khi vợ con đã say ngủ, nhớ thuốc anh lại ngồi dậy cầm cuốc xẻnh ra đào ao để thả cá. Thậm chí chiếc ao mà bây giờ đưa về cho gia đình 30 triệu tiền cá một năm, toàn bộ đá xây ngôi nhà anh đang ở, đá xây chuồng bò, đá để lát sân… cũng là thành quả của những lần anh lao động trong các đêm mộng du đã qua ấy.

"Hàng trăm chiếc búa tạ đã hỏng và tôi có ngày hôm nay." Ngày hôm nay của anh, Giang bảo không phải là những thành qủa có thể nhìn và đong đếm được mà cái quan trọng là anh đã làm lại cuộc đời, đã biết dạy cho hai đứa con một trai một gái về những lẽ sống và lòng hướng thiện bằng quá khứ sống động và đầy ám ảnh của chính bản thân mình. Cuộc đời dài lắm nhưng đôi khi cuộc đời cũng chỉ như bóng câu qua cửa, đã rất nhiều lần trong đêm khuya, khi vợ con đã say giấc, Giang lại lẳng lặng xuống bếp cùng với cây ghi ta âm thầm hát những lời buồn của Trịnh. "Cuộc đời đó, có bao lâu, mà hững hờ…" Anh hát nhạc Trịnh khá hay

Cùng chuyên mục

TIN MỚI

    X

    ĐANG PHÁT

    Bản tin thời tiết chào buổi sáng 3 phút trước